Vũ Khí Bóng Đêm 3: Thành Phố Pha Lê
Anh yêu em, vì thế anh vẽ những con sóng
của những con người lên bàn tay
và viết ước nguyện lên bầu trời sao.
- T.E. Lawrence
Khói lười nhác bốc lên thành từng cuộn xoáy ốc, tạo nên những đường màu đen trên bầu trời trong xanh. Jace, ngồi một mình trên đỉnh đồi nhìn ra nghĩa trang, chống khuỷu tay lên đầu gối và quan sát chúng bay lên thiên đường. Anh vẫn không bỏ được tính thích châm biếm: Đó là những gì còn lại của bố anh.
Từ nơi anh ngồi, anh có thể thấy cỗ quan tài hun giữa lửa và khói, với một nhóm nhỏ đứng xung quanh. Anh nhận ra mái tóc đỏ rực của cô Jocelyn và chú Luke đứng bên cạnh, tay đặt trên lưng cô. Cô Jocelyn quay đầu sang bên, không nhìn cỗ quan tài đang cháy rừng rực nữa.
Jace có thể tham gia vào nhóm người đó nếu anh muốn. Anh đã dành hai ngày rồi trong nhà thương, và họ chỉ cho anh ra vào sáng nay, một phần để anh có thể dự tang lễ của Valentine. Nhưng anh đi được nửa đường tới cái quan tài kia, một chồng những mảnh gỗ trắng như xương, và nhận ra anh không thể đi xa hơn. Anh quay lại và lên đồi, tránh xa khỏi nơi cử hành tang lễ. Chú Luke gọi anh nhưng anh không quay lại.
Anh ngồi và quan sát họ đứng chung quanh quan tài, quan sát chú Patrick Penhallow trong bộ đồ màu trắng da dê đốt đống củi. Đó là lần thứ hai trong tuần này anh chứng kiến hỏa thiêu, nhưng Max là một đứa trẻ nhỏ bé tội nghiệp, còn Valentine là một người đàn ông to lớn - kể cả khi đang nằm với hai tay đan chéo trước ngực, thanh kiếm thiên thần đặt trong lòng bàn tay. Đôi mắt ông được che bằng vải lụa trắng, đúng như phong tục của Thợ Săn Bóng Tối. Dù cho mọi chuyện ông ta đã làm, họ vẫn lo tang ma cho ông ta tươm tất. Họ không chôn Sebastian. Một nhóm Thợ Săn Bóng Tối đã trở lại thung lũng, nhưng không tìm được thi thể hắn - họ bảo với Jace rằng thi thể hắn đã trôi theo dòng sông, dù anh không tin lắm.
Anh đưa mắt tìm giữa những người quanh dàn hỏa thiêu, nhưng cô không ở đó. Đã hai ngày nay, kể từ lúc ở hồ, anh không được gặp cô và anh nhớ cô da diết. Không phải do Clary mà hai người không được gặp nhau. Cô đã lo rằng anh không đủ sức để trở về Alicante qua Cổng Dịch Chuyển vào đêm đó, và hóa ra cô đúng. Khi những Thợ Săn Bóng Tối đầu tiên có mặt, anh đã rơi vòa trạng thái hôn mê. Anh bị đánh thức vào sáng hôm sau trong bệnh viện thành phố cùng Magnus Bane đứng nhìn theo một kiểu kì dị - có thể Đại pháp sư đang quan tâm sâu sắc hoặc là tò mò không phải lối, khó mà biết Magnus đang suy nghĩ điều gì. Magnus nói rằng dù Thiên Thần đã chữa lành cho anh về mặt thể chất, nhưng có vẻ tinh thần và trí óc anh đã kiệt quệ nên chỉ có nghỉ ngơi mới giúp anh hồi phục. Nhưng dù sao, giờ anh cũng đã tốt hơn. Đúng lúc để dự lễ tang.
Một cơn gió nổi lên và thổi bay về phía anh. Từ xa anh có thể thấy những ngọn tháp sáng của Alicante, sự huy hoàng ngày xưa của nó đã được khôi phục. Anh không hoàn toàn chắc anh mong có gì khi ngồi đây và quan sát thi thể người bố bị hỏa thiêu, hay anh sẽ nói gì nếu được ở dưới đó cùng những người dự tang lễ, nói những lời cuối cùng với Valentine. Ông chưa bao giờ thực sự là bố tôi, anh sẽ nói, hoặc là Ông là người bố duy nhất mà tôi biết. Cả hai câu đó đều đúng như nhau, dù nghe nghịch tai tới mức nào.
Khi anh mở mắt lúc ở hồ - không hiểu sao, biết mình đã chết và giờ tỉnh lại – mọi điều Jace có thể nghĩ về Clary, nằm cách đó một quãng trên cát bê bết máu, mắt nhắm nghiền. Anh hoảng loạn vội tới bên cô, nghĩ rằng có thể cô bị thương hoặc thậm chí đã chết – và khi cô mở mắt ra, tất cả những gì anh có thể nghĩ là cô đã không sao. Tới khi những người khác tới, giúp anh đứng lên, reo hò trong sung sướng, anh mới thấy thi thể Valentine nằm co quắp gần bờ hồ và cảm thấy như bị đấm vào bụng. Anh biết Valentine đã chết – nhưng không hiểu sao, cảnh tượng đó thật thương tâm. Clary đã nhìn Jace bằng đôi mắt buồn, và anh biết dù cô ghét Valentine và chẳng có lý do nào để không ghét ông ấy, nhưng cô cảm nhận được sự mất mát nơi anh.
Anh nhắm hờ mắt và để những hình ảnh hiện lên đuổi theo nhau ở trên mí mắt: Valentine ôm anh lên khỏi trảng cỏ, ông ôm anh thật chặt, Valentine giúp anh đứng vững trên mũi thuyền trên hồ, để anh học cách giữ thăng bằng. Và những ký ức khác, đen tối hơn: bàn tay Valentine tát cái chát lên mặt anh, con chim ưng chết, thiên thần bị giam trong hầm rượu nhà Wayland.
“Jace”.
Anh ngước nhìn. Chú Luke đang đứng trước mặt, một bóng người đen ngược hướng mặt trời. Chú mặc quần bó và áo sơ mi flannel như thường lệ - chú không cần mặc đồ tang trắng. “Xong rồi”, Chú Luke nói. “Buổi lễ ấy. Nó ngắn thôi”.
“Chắc vậy ạ”. Jace ấn những ngón tay vào mặt đất bên cạnh, chào mừng cảm giác trầy xước của đất trên những đầu ngón tay. “Có ai nói gì không hả chú?”
“Chỉ những lời thông thường ấy mà”. Chú Luke ngồi xuống bên cạnh, hơi nhăn mặt một chút. Jace không hỏi chú xem trận chiến diễn ra thế nào; anh không hẳn muốn biết. Anh biết nó nhanh hơn mọi người đã nghĩ - sau khi Valentine chết, những con quỷ ông ta triệu tập đã bỏ chạy vào màn đêm như sương tan biến khi gặp ánh mặt trời. Nhưng đó không có nghĩa là không có thương vong. Valentine không phải thi thể duy nhất được hỏa thiêu ở Alicante vào những ngày này.
“Và Clary không có - ý cháu là, em ấy không”.
“Tới lễ tang? Không. Con bé không muốn tới”. Jace có thể cảm nhận chú đang liếc nhìn mình. Cháu không gặp con bé à? Kể từ khi...”
“Không ạ”, Jace nói. “Đây là ngày đầu tiên họ cho cháu ra viện, và cháu phải tới đây”.
“Cháu không phải tới”, chú Luke nói. “Cháu có thể tránh xa”.
“Cháu muốn tới”, Jace thừa nhận. “Dù họ nói về cháu như thế nào”.
“Tang lễ là dành cho người sống, Jace ạ, không dành cho người chết. Valentine giống cha của cháu hơn với Clary, dù các cháu không chung huyết thống. Cháu là người phải tới từ biệt. Cháu là người sẽ nhớ ông ấy”.
“Cháu không nghĩ mình được phép nhớ ông ta”.
“Cháu chưa bao giờ biết tới Stephen Herodale”, chú Luke bảo. “Và cháu tới với Robert Lightwood khi cháu không còn mấy trẻ con nữa. Valentine là người cha trong thời thơ ấu của cháu. Cháu nên nhớ ông ấy”.
“Cháu cứ nghĩ về bác Hogde”, Jace nói. “Lúc ở Gard, cháu cứ hỏi bác ấy vì sao bác không nói cho cháu biết cháu là ai - lúc đó cháu cứ nghĩ mình là một á quỷ - và rồi bác ấy cứ nói là bác ấy không biết. Cháu cứ tưởng bác ý nói dối. Nhưng giờ cháu nghĩ bác ấy nói thật. Bác ấy là người duy nhất biết rằng đứa trẻ nhà Herodale còn sống. Khi cháu xuất hiện ở Học Viện, bác ấy không biết cháu là đứa con trai nào của Valentine. Con đẻ hay con nuôi. Và cháu có thể là bất cứ đứa nào. Quỷ hoặc thiên thần. Vấn đề là, cháu không nghĩ bác ấy biết, cho tới khi thấy Jonathan ở Gard và nhận ra. Vì thế bao nhiêu năm qua bác ấy đã tận tình nuôi dạy cháu, cho tới khi Valentine trở lại. Đó là một dạng trung thành - chú có nghĩ vậy không?”
“Ừ”, chú Luke nói. “Chú nghĩ vậy”.
“Bác Hodge nói bác ấy nghĩ có lẽ công sinh không bằng công dưỡng. Cháu cứ nghĩ mãi - nếu cháu ở cùng Valentine, nếu ông ta không đưa cháu tới cho nhà Lightwood, cháu có giống như Jonathan không? Có phải giờ cháu cũng như vậy?”
“Có vấn đề gì sao?” Chú Luke hỏi. “Cháu như bây giờ là có nguyên do. Nếu cháu hỏi chú, chú nghĩ Valentine đưa cháu tới nhà Lightwood vì ông ấy biết đó là cơ hội tốt nhất cho cháu. Có thể ông ta có những lý do khác nữa. Nhưng cháu không thể trốn tránh sự thật rằng: ông ta đã đưa cháu tới cho những người ông ta biết sẽ yêu thương và nuôi dạy cháu bằng tình thương. Có lẽ đó là một trong số ít những điều ông ta thực sự làm vì người khác”. Chú vỗ vai Jace, một cử chỉ như một bậc cha mẹ khiến Jace suýt mỉm cười. “Chú sẽ không bao giờ quên, nếu chú là cháu”.
Clary, đứng và nhìn ra ngoài từ ô cửa sổ phòng Isabelle, quan sát khói nhuộm đen bầu trời Alicante như có một bàn tay dính bẩn che cửa sổ. Cô biết, hôm nay họ sẽ hỏa thiêu Valentine; hỏa thiêu người bố đẻ của cô, trong nghĩa trang bên ngoài những cánh cổng. “Cậu biết về buổi lễ mừng tối nay chứ?” Clary quay sang nhìn Isabelle đứng sau cô, đang giơ hai chiếc váy, một màu xanh và một màu xám lạnh. “Cậu nghĩ mình nên mặc cái nào?”
Clary nghĩ với Isabelle, quần áo luôn là một phương pháp trị liệu tốt. “Cái màu xanh”.
Isabelle đặt hai chiếc váy xuống giường. “Cậu định mặc gì? Cậu sẽ đi đúng không?”
Clary nghĩ tới chiếc váy màu bạc ở đáy rương của cô Amatis, với chất liệu voan đáng yêu. Nhưng có lẽ cô Amatis sẽ không bao giờ cho phép cô mặc nó.
“Mình không biết”, cô nói. “Có lẽ là quần bò và áo khoác xanh của mình”.
“Chán chết”, Isabelle nói. Cô nàng liếc nhìn Aline đang ngồi trên chiếc ghế cạnh giường và đọc sách. “Cậu có nghĩ thế thì chán chết không?”
“Chị nghĩ em nên để Clary mặc cái gì bạn ấy muốn”. Aline không buồn ngước mặt khỏi cuốn sách. “Hơn nữa, không phải em ấy phải ăn vận vì người khác đâu”.
“Bạn ấy mặc đẹp là vì Jace”, Isabelle nói, như thể đó là điều hiển nhiên. “Vì thế bạn ấy phải mặc đẹp”.
Aline ngước lên, chớp mắt bối rối, rồi mỉm cười. “À, đúng rồi. Chị cứ quên mất. Chắc hẳn phải kỳ cục lắm, khi biết anh ấy không phải anh ruột cậu?”
“Không”, Clary đáp ngay. “Nghĩ anh ấy là anh em mới kỳ lạ. Cái này có cảm giác - đúng.” Cô lại nhìn ra ngoài cửa sổ. “Em thực sự gặp anh ấy kể từ khi em biết chuyện. Kể từ khi bọn em trở về Alicante”.
“Lạ thật”. Aline nói.
“Không phải lạ”, Isabelle nói, tặng cho Aline một cái nhìn đầy ẩn ý, nhưng Aline có vẻ không để ý. “Anh ấy ở bệnh viện. Hôm nay anh ấy mới được ra”.
“Và anh ấy không tới gặp em ngay?” Aline hỏi Clary.
“Anh ấy không thể”. Clary nói. “Anh ấy phải dự tang lễ của Valentine. Anh ấy không thể bỏ lỡ nó”.
“Có lẽ,” Aline vui vẻ nói. “Hoặc có lẽ anh ấy chẳng còn thích em nữa. Một vài người chỉ thích những thứ họ không có được”.
“Nhưng Jace thì không”, Isabelle vội nói. “Jace không như thế”.
Aline đứng lên, vứt cuốn sách lên giường. “Chị đi sửa soạn đây. Gặp lại hai em tối nay nhé?”
Và cùng với đó, cô nàng rời bước khỏi phòng, vừa đi vừa ngâm nga. Isabelle quan sát cô gái kia rời phòng và lắc đầu. “Cậu có nghĩ là Aline không thích cậu không?” cô nói. “Ý mình là, Aline có ghen tị không? Có vẻ chị ấy thích Jace”.
“Ha!” Clary hơi ngạc nhiên. “Không, Aline không thích Jace đâu. Mình nghĩ chị ấy chỉ là dạng người nghĩ gì nói nấy thôi. Và ai biết được, có lẽ chị ấy đúng”.
Isabelle rút ghim khỏi tóc, để mái tóc rơi xuống bờ vai. Cô nàng tới cạnh Clary bên cửa sổ. Bầu trời trong xanh trở lại; khói đã tản mát hết. “Cậu có nghĩ Aline nói đúng không?”
“Mình không biết nữa. Mình sẽ hỏi Jace. Mình đoán mình sẽ gặp anh ấy tối nay trong bữa tiệc. Hoặc lễ mừng chiến thắng hay gì đó đại loại”. Cô nhìn Isabelle. “Cậu biết nó thế nào không?”
“Có lẽ có một buổi diễu hành”, Isabelle nói, “và pháo hoa nữa. Âm nhạc, nhảy nhót, trò chơi, chắc dạng như thế. Như một hội chợ đường phố lớn ở New York”. Cô nàng liếc ra ngoài cửa sổ, vẻ bâng khuâng u sầu. “Max hẳn sẽ thích lắm”.
Cô đưa tay vuốt tóc Isabelle, theo cách cô sẽ vuốt tóc người chị em nếu có. “Mình biết mà”.
Jace phải gõ cửa ngôi nhà cạnh con kênh những hai lần mới nghe thấy tiếng chân chạy vội trên cầu thang ra mở cửa; trái tim anh nảy lên, và rồi bình tĩnh lại khi cánh cửa mở và cô Amatis Herodale đứng trước ngưỡng cửa, ngạc nhiên nhìn anh. Cô trông như đang chuẩn bị cho buổi tiệc: cô mặc chiếc váy màu xám trắng dài và đeo khuyên tai ánh kim nhạt làm nổi bật những sợi bạc trên mái tóc xám. “Có gì không cháu?”
“Cháu muốn gặp Clary ạ”, anh nói, rồi ngừng lại, không biết phải nói gì tiếp. Tài ăn nói của anh đi đâu mất rồi? Anh luôn luôn biết ăn nói, kể cả khi chẳng còn gì khác, nhưng anh có cảm giác như bị xé tung và tất cả những lời nói khôn khéo, lưu loát đã ào hết khỏi anh, bỏ lại anh rỗng ruột. “Clary có ở đây không cô. Cháu muốn nói chuyện với em ấy”.
Amatis lắc đầu. Sự bối rối trên nét mặt cô đã biến mất, và giờ cô nhìn anh chăm chú tới mức khiến anh lo lắng. “Con bé không có nhà. Chắc con bé đang bên nhà Lightwood đấy”.
“À”. Anh ngạc nhiên vì sự thất vọng đang cảm thấy. “Cháu xin lỗi đã làm phiền cô”.
“Ôi phiền hà gì. Thật ra, cô mừng vì cháu tới đây”, cô đáp ngay tức thì. “Có vài thứ cô muốn nói với cháu. Vào nhà đi, cô sẽ trở lại ngay”.
Jace bước vào khi cô biến mất trong hành lang. Anh tự hỏi liệu cô muốn nói với anh chuyện gì chứ. Có lẽ Clary đã quyết định không muốn dây dưa gì với anh và nhờ cô Amatis chuyển lời. Cô Amatis trở lại sau một lát. Cô không cầm gì đó giống như một lá thư - nhờ vậy mà Jace cảm thấy nhẹ cả người - nhưng ôm chặt một chiếc hộp sắt trong tay. Đó là một vật đẹp có khắc họa tiết hình những chú chim. “Jace”, cô Amatis nói. “Chú Luke cho cô biết cháu là con trai Stephen - rằng Stephen chính là bố đẻ của cháu. Chú ấy đã nói cho cô biết mọi chuyện”.
Jace gật đầu, và giờ anh chỉ biết làm có thế. Tin tức lan đi rất chậm, và anh thích thế; anh mong sẽ trở về New York trước khi mọi người tại Idris đều biết và lúc nào cũng giương mắt nhìn anh.
“Cháu biết cô đã kết hôn với Stephen trước mẹ cháu”, cô Amatis nói tiếp, giọng nghẹn lại, như những lời đó làm cô đâu. Jace nhìn cô - đây có phải là về mẹ anh không? Có phải cô đang trách cứ anh vì đã đưa những ký ức không hay về người phụ nữ đã chết trước khi anh kịp chào đời? “Trong tất cả những người còn sống tới ngày hôm nay, cô là người hiểu bố cháu nhất”.
“Vâng”, Jace nói, ước gì mình ở nơi khác. “Cháu chắc chắn là vậy”.
“Cô biết cháu có những cảm xúc lẫn lộn về Stephen”, cô nói, khiến cậu chủ yếu là ngạc nhiên vì nó đúng. “Cháu chưa bao giờ biết về bố cháu, ý cô nói là bố đẻ ấy, và bố cháu không phải là người nuôi nấng cháu, nhưng cháu rất giống ông ấy - trừ đôi mắt, đó là của mẹ cháu. Và có thể cô điên, vì đã làm phiền cháu với những chuyện này. Có thể cháu không muốn biết gì về Stephen. Nhưng ông ấy là bố đẻ của cháu, và nếu ông ấy biết cháu-” Cô chìa cái hộp cho anh, suýt làm anh nhảy dựng ra sau. “Trong đây có vài thứ của Stephen mà cô đã lưu giữ suốt bấy nhiêu năm. Những lá thư ông ấy viết, ảnh, phả hệ. Viên đá phù thủy. Có lẽ cháu không có khúc mắc nào, nhưng có thể một ngày cháu sẽ có, và khi đó - khi đó, cháu sẽ có cái này”. Cô đứng im, chìa tay cho anh cái hộp như thể đưa cho anh một kho báu lớn. Jace vươn tay và cầm lấy không nói một lời; nó nặng, và lớp kim loại mát lạnh trên da anh.
“Cảm ơn cô”, anh nói. Anh chỉ nghĩ được đến thế. Anh lưỡng lự rồi nói. “Có một điều. Một điều cháu luôn băn khoăn”.
“Ừ?”
“Nếu Stephen là bố cháu, vậy Điều Tra Viên - Imogen - là bà nội của cháu”.
“Đúng-” cô Amatis ngừng nói. “Một người phụ nữ khắc nghiệt. Nhưng đúng, bà ấy là bà nội của cháu”.
“Bà đã cứu mạng cháu”, Jace nói, “Cháu muốn nói, trong một thời gian dài bà hành động như thể ghét cháu đến tận tâm can. Nhưng rồi bà nhìn thấy cái này”. Anh vạch cổ áo sang bên, cho Amatis thấy vết sẹo hình sao ở bên vai. “Và bà đã cứu mạng cháu. Nhưng vết sẹo có ý nghĩa gì ạ?”
Đôi mắt cô Amatis chợt mở lớn. “Cháu không nhớ vì sao có vết sẹo này sao?”
Jace lắc đầu. “Valentine nói với cháu đó là một vết thương khi cháu còn quá nhỏ nên không nhớ, nhưng giờ - cháu không tin ông ta.”
“Đó không phải là sẹo, mà là một cái bớt. Dòng họ Herodale truyền nhau câu chuyện rằng, một trong những đứa con đầu tiên trong họ trở thành Thợ Săn Bóng Tối đã mơ thấy Thiên Thần. Thiên Thần đã chạm vào vai ông ta, và khi ông ta tỉnh dậy, ông ta có vết sẹo như của cháu. Cũng như tất cả con cháu của dòng họ Herodale”. Cô nhún vai. “Cô không biết câu chuyện này có thật không, nhưng tất cả người nhà Herodale đều có nó”. Cô cọ lên cẳng tay phải. “Họ nói nó có nghĩa là cháu có thể có mối liên hệ với một Thiên Thần. Theo một cách nào đó, cháu được chúc phúc. Imogen hẳn đã thấy vết bớt và đoán được cháu thực sự là ai”.
Jace nhìn cô Amatis, nhưng không thực sự thấy cô; Anh đang thấy cái đêm trên tàu; boong tàu tối om ướt nhẹt và Điều Tra Viên chết dưới chân anh. “Bà đã nói điều gì đó với cháu”, anh nói. “trong lúc hấp hối. Bà nói, ‘Bố cháu sẽ tự hào về cháu’. Cháu cứ nghĩ bà thật độc ác. Cháu cứ nghĩ bà đang nói tới Valentine-”
Cô Amatis lắc đầu. “Bà ấy nói tới Stephen đấy”, cô nhẹ nhàng nói. “Và bà nói đúng. Stephen tự hào về cháu”.
Clary mở cửa nhà cô Amatis và bước vào, nghĩ tới căn nhà trở nên thân quen với cô nhanh thế nào. Cô không còn phải cố nhớ đường tới cửa trước, hay cách năm đấm cửa hơi dít khi cô đẩy mở. Ánh mặt trời lấp lánh trên mặt kênh thật quen thuộc, cũng như quang cảnh ở Alicante qua ô cửa sổ vậy. Cô gần như tưởng tượng được cuộc sống của cô sẽ ra sao khi Idris trở thành nhà. Cô tự hỏi cô sẽ nhớ gì trước đây? Đồ ăn Trung Quốc? Những bộ phim? Quán truyện tranh ở Midtown?
Cô đang định lên lầu thì nghe thấy giọng nói của mẹ trong phòng khách - sắc lạnh và hơi giận. Mẹ có thể bực về chuyện gì chứ? Giờ mọi chuyện đều tốt cả mà? Không buồn nghĩ ngợi, Clary dựa người vào sát phòng và nghe ngóng.
“Anh nói sao, anh ở lại à?” Jocelyn đang nói. “Anh muốn nói anh sẽ không trở lại New York?”
“Họ yêu cầu anh ở lại Alicante và đại diện cho người sói trong Hội Đồng”, chú Luke nói. “Anh bảo họ tối nay anh sẽ trả lời”.
“Không có ai khác sao? Một sói đầu đàn khác đang ở Idris chẳng hạn?”
“Anh là sói đầu đàn duy nhất từng là Thợ Săn Bóng Tối. Đó là lý do họ muốn anh”. Chú thở dài. “Anh đã bắt đầu mọi chuyện, Jocelyn ạ. Anh nên ở lại để xử lý cho tươm tất”. Sau đó là một khoảng im lặng ngắn.
“Nếu đó là điều anh cảm nhận, vậy thì tất nhiên anh nên ở lại”, cuối cùng mẹ Jocelyn nói, nhưng giọng không chắc chắn.
“Anh sẽ phải bán hiệu sách. Chuyển sang bán sách đặt”. Chú Luke có vẻ bực bội. “Không hẳn là anh sẽ đi ngay”.
“Em có thể lo giùm anh. Sau mọi điều anh đã làm-” mẹ Jocelyn có vẻ chẳng còn hơi sức để giữ giọng phấn chấn. Giọng mẹ lặng đi thành im lặng, một sự im lặng kéo dài tới mức Clary định húng hắng giọng và bước vào phòng khách để thông báo cho họ biết cô đã về.
Một lát sau cô mừng vì mình không bước vào. “Nghe này”, chú Luke nói. “Anh muốn nói điều này với em từ rất lâu nhưng không dám nói. Anh biết nó chẳng bao giờ quan trọng, kể cả nếu anh nói ra, vì đó là anh. Em chưa bao giờ muốn nó thành một phần của cuộc đời Clary. Nhưng giờ con bé đã biết, vì thế có lẽ điều này cũng chẳng tạo ta khác biệt gì. Và anh cũng nên nói với em nữa. Anh yêu em, Jocelyn. Anh đã yêu em suốt hai mươi năm nay”. Chú Luke ngừng lại. Clary căng tai để nghe mẹ trả lời, nhưng mẹ vẫn im lặng. Cuối cùng chú Luke lại cất tiếng, giọng nặng nề. “Anh phải trở lại Hội Đồng và nói với họ rằng anh sẽ ở lại. Chỉ là anh cảm thấy nhẹ nhõm hơn khi được nói ra tâm sự của mình”.
Clary ép mình vào tường khi chú Luke cúi đầu rời khỏi phòng khách. Chú va phải cô mà dường như chẳng thấy và mở cửa trước. Chú đứng đó một lúc, mơ màng nhìn ánh mặt trời đang nhảy múa trên mặt kênh. Rồi chú bỏ đi, cánh cửa đóng sầm sau lưng.
Clary đứng tại chỗ, lưng dựa vào tường. Cô cảm thấy buồn thay cho chú Luke, và cho cả mẹ nữa. Có vẻ mẹ Jocelyn không thực sự yêu chú Luke, và có lẽ chẳng bao giờ có thể yêu chú. Cũng giống như cô và Simon, trừ việc cô không thấy lý do để mẹ và chú Luke không đến với nhau. Chỉ có điều chú sẽ ở lại Idris. Nước mắt cay cay trong tròng mắt cô. Cô định quay người và vào phòng khách thì nghe thấy tiếng cửa bếp mở và một giọng khác. Giọng này nghe mệt mỏi, có chút buồn bã. Cô Amatis. “Xin lỗi em đã nghe trộm, nhưng em mừng vì Luke ở lại”, người em gái của chú Luke nói. “Không phải vì anh ấy sẽ ở gần em mà vì như vậy Luke có thể quên được chị”.
Mẹ Jocelyn có vẻ phật lòng. “Amatis-”
“Đã lâu lắm rồi, Jocelyn à”, cô Amatis nói. “Nếu chị không yêu Luke, chị hãy nói cho anh ấy biết”.
Jocelyn im lặng. Clary ước gì cô có thể nhìn thấy mẹ đang như thế nào - mẹ có buồn? Hay giận? Hay chán nản?
Cô Amatis thở dài. “Trừ khi - chị cũng yêu Luke?”
“Amatis, chị không thể-”
“Chị có! Chị có!” Có một tiếng động mạnh, như thể cô Amatis vừa vỗ tay. “Em biết mà! Em lúc nào cũng biết!”
“Nhưng không quan trọng rồi em à”. Jocelyn có vẻ mệt mỏi. “Như vậy không công bằng với Luke”.
Có tiếng sột soạt, và Jocelyn cự nự. Clary tự hỏi có phải Amatis đang giữ mẹ cô không. “Nếu chị yêu Luke, hãy đi và nói cho anh ấy biết ngay đi. Ngay bây giờ, trước khi anh ấy tới Hội Đồng”.
“Nhưng họ muốn Luke làm thành viên Hội Đồng! Và anh ấy muốn-”
“Mọi điều Lucian muốn”, cô Amatis cương quyết nói, “là chị. Chị và Clary. Đó là mọi điều anh ấy muốn. Giờ đi đi”.
Trước khi Clary kịp đi chỗ khác, Jocelyn đã lao ra ngoài hành lang. Mẹ đi ra cửa - và thấy Clary, đang đứng sát tường. Dừng sựng lại, mẹ há hốc miệng vì ngạc nhiên.
“Clary!” Mẹ có vẻ đang cố nói giọng vui vẻ và tươi sáng, nhưng đã thất bại thảm hại. “Mẹ không biết con ở đây”.
Clary rời khỏi bờ tường, nắm lấy nắm đấm và mở rộng cánh cửa. Ánh mặt trời rực rỡ ùa vào hành lang. Jocelyn đứng chớp mắt trước luồng ánh sáng chói chang, mắt vẫn nhìn cô con gái.
“Nếu mẹ không đuổi theo chú Luke”, Clary nói, rõ từng từ từng chữ, “Con, sẽ đích thân, giết mẹ”.
Trong một khoảnh khắc, Jocelyn có vẻ kinh ngạc. Rồi mẹ mỉm cười. “Tốt thôi”, mẹ nói, “nếu con đã quyết tâm đến thế”.
Một lát sau mẹ rời khỏi nhà, vội vã theo đường kênh tới Sảnh Hiệp Định. Clary đóng cửa và dựa người lên đó.
Cô Amatis, xuất hiện từ phòng khách, chạy vội qua cô và chống tay lên bậu cửa sổ, lo lắng liếc nhìn ra ngoài. “Cháu có nghĩ mẹ cháu sẽ đuổi kịp Luke trước khi anh ấy tới Sảnh không?”
“Mẹ cháu dành cả đời để đuổi theo cháu mà”, Clary nói. “Và mẹ nhanh nhẹn lắm”.
Amatis nhìn cô và mỉm cười. “Ồ, điều đó làm cô nhớ”, cô Amatis nói. “Jace có ghé qua gặp cháu. Cô nghĩ thằng bé mong thấy cháu ở buổi lễ tối nay”.
“Thật ạ?” Clary trầm ngâm. Có hỏi mới biết. Không liều không có. “Cô Amatis ơi”, cô nói, và em gái chú Luke quay lại, tò mò nhìn cô.
“Ừ?”
“Cái váy bạc của cô, trong hòm ấy”, Clary nói. “Cháu mượn được không?”
Con đường đã đầy ắp người khi Clary vào thành phố, hướng về ngôi nhà của gia đình Lightwood. Giờ là chạng vạng và thành phố bắt đầu lên đèn, nhuộm bầu không khí bằng những quầng sáng trắng. Những bông hoa trông quen mắt trong các giỏ treo trên tường tỏa hương ngào ngạt. Những chữ rune lửa màu vàng sậm cháy rần rật trên cánh cửa các ngôi nhà cô bước qua; những chữ rune hàm nghĩa chiến thắng và vui sướng. Thợ Săn Bóng Tối đi lại trên đường. Không ai mặc đồ đi săn - họ mặc đủ thể loại quần áo, từ hiện đại tới các trang phục mang hơi hướng hoài cổ. Đêm nay ấm áp lạ thường, vì thế chỉ có một vài người mặc áo khoác, nhưng có rất nhiều phụ nữ mặc đồ dạ hội, gấu váy dài quét trên đường. Một bóng người đi ngang đường trước mặt cô khi cô rẽ sang phố nhà Lightwood, và cô nhận ra đó là Raphael, tay trong tay với một quý cô tóc đỏ mặc váy ngắn. Anh ta ngoái lại mỉm cười chào Clary, một nụ cười khiến cô có chút rùng mình, và cô nghĩ đúng là đôi khi những cư dân Thế Giới Ngầm khiến người ta có cảm giác kì dị, là lạ và hãi hùng. Chỉ có điều không phải những điều hãi hùng cũng là xấu.
Dù sao, cô cũng có những nghi ngờ về Raphael.
Cửa trước nhà Lightwood mở rộng, và vài thành viên gia đình đã đứng trên vỉa hè. Cô Maryse và chú Robert Lightwood ở đó, nói chuyện với vài người lớn khác; khi họ quay lại, cô hơi ngạc nhiên khi thấy cô chú Penhallow, bố mẹ của Aline. Cô Maryse mỉm cười với cô; cô thật thanh lịch trong bộ véc lụa màu xanh sậm, mái tóc được vuốt ra sau để lộ gương mặt góc cạnh bằng một cái bằng đô màu bạc thật dày. Cô thật giống Isabelle - quá giống đến mức Clary muốn đặt tay lên vai cô. Cô Maryse vẫn còn rất buồn, dù cô mỉm cười, và Clary nghĩ, Cô đang nhớ Max, cũng như Isabelle, và nghĩ rằng cậu bé sẽ thích buổi lễ này.
“Clary!” Isabelle chạy hối hả xuống bậc tam cấp, mái tóc đen bay bay sau lưng. Cô nàng chẳng mặc bộ nào trong hai bộ đồ cô giơ ra cho Clary lúc trước, mà là một chiếc váy vải sa tanh màu vàng tuyệt đẹp ôm sát cơ thể như một bông hoa còn khép nụ. Cô nàng đi xăng đan đinh tán, và Clary nhớ Isabelle từng nói gì về việc cô nàng thích những đôi giày cao gót, và mỉm cười một mình. “Cậu tuyệt lắm”.
“Cảm ơn nhé”. Clary lo lắng kéo lớp vải trong của chiếc váy bạc. Có lẽ đây là thứ đồ nữ tính nhất cô từng mặc. Vai cô để trần, và mỗi lần cô cảm nhận đuôi tóc chạm vào đó, cô lại có ý muốn đi tìm một chiếc áo cardigan hay áo hoodie để che mình lại. “Cậu cũng vậy”.
Isabelle nhoài người thì thào. “Jace không ở đây”.
Clary giật mình. “Vậy anh ấy ở-?”
“Alec nói có lẽ anh ấy ở quảng trường, nơi sắp bắn pháo hoa. Mình xin lỗi - mình chẳng biết anh ấy bị sao nữa”.
Clary nhún vai, cố che giấu sự thất vọng. “Ổn mà”.
Alec và Aline rời khỏi nhà sau Isabelle, Aline trong chiếc váy đỏ tươi khiến mái tóc cô càng đen ghê gớm. Alec mặc như bình thường với áo len chui cổ và quần đen, dù Clary phải thừa nhận rằng ít nhất thì cái áo len đó có vẻ không có lỗ thủng nào. Anh cười với Clary và cô nghĩ, hơi ngạc nhiên, rằng trông anh thực sự đã khác. Nhẹ nhõm hơn, như thể gánh nặng đã rời bỏ đôi vai anh.
“Chị chưa bao giờ có buổi lễ nào cùng cư dân Thế Giới Ngầm hết”, Aline nói, lo lắng nhìn đường phố, nơi một tiên nữ tóc dài bện hoa - không, Clary nghĩ, tóc cô ta là những bông hoa được kết với nhau bằng những dây leo màu xanh lá - đang dứt một bông hoa trắng khỏi giỏ treo, trầm tư nhìn chúng rồi bỏ vào miệng.
“Chị sẽ thích thôi”, Isabelle nói. “Họ biết cách tiệc tùng lắm”. Cô nàng vẫy chào bố mẹ và họ cùng đi về quảng trường, Clary vẫn đang nén cảm giác muốn che nửa người trên bằng cách khoanh tay trước ngực. Chiếc váy dập dờn quanh chân cô như khói cuộn trong gió. Cô nghĩ tới đám khói bay lên bầu trời Alicante vào sớm hôm nay và rùng mình.
“Ê!” Isabelle nói và Clary ngước nhìn thấy Simon và Maia đang tiến tới chỗ họ. Cô đã không gặp Simon gần như cả ngày hôm nay; cậu đã tới Sảnh để xem buổi họp sơ bộ của Hội Đồng vì, như cậu nói, cậu tò mò xem họ sẽ chọn ma cà rồng nào ngồi vào Hội Đồng. Clary không thể tưởng tượng ra Maia sẽ mặc bất cứ thứ gì nữ tính như váy, và quả thật, cô nàng chọn chiếc quần rằn ri và áo phông đen có hàng chữ LỰA CHỌN VŨ KHÍ với hình xúc xắc bên dưới. Đó là khẩu hiệu của các game thủ, Clary hỏi, tự nhủ liệu Maia có thực sự là game thủ không hay chỉ mặc chiếc áo phông đó để lấy le với Simon. Nếu vậy, quả là lựa chọn tốt. “Cậu đang xuống Quảng Trường Thiên Thần?”
Maia và Simon xác nhận và họ cùng nhau đi. Simon đi chậm lại bên cạnh Clary, và họ im lặng đi bên nhau. Thật tốt khi lại được ở gần Simon - cậu là người đầu tiên cô muốn gặp khi trở lại Alicante. Cô đã ôm bạn rất chặt, mừng vì bạn còn sống và chạm tay vào Ấn Ký trên trán.
“Nó đã cứu cậu à?” cô đã hỏi, muốn nghe rằng cô đã không làm điều phải làm với cậu mà chẳng có nguyên do.
“Nó đã cứu mình”, là toàn bộ những lời cậu đáp.
“Mình ước mình có thể xóa nó đi”, cô nói. “Mình ước mình biết điều gì sẽ đến với cậu vì nó”.
Cậu đã nắm lấy cổ tay Clary và nhẹ nhàng đặt tay cô xuôi thân. “Chúng ta sẽ đợi”, cậu nói. “Và sẽ biết thôi”.
Cô đã quan sát bạn rất kỹ, nhưng cô phải thừa nhận là hình như Ấn Ký không có ảnh hưởng hữu hình nào với cậu cả. Cậu vẫn như bình thường. Vẫn như Simon. Chỉ có cách cậu để tóc là hơi khác, để che đi Ấn Ký; nếu bạn không biết nó ở đó, bạn sẽ không bao giờ đoán ra.
“Buổi họp thế nào?” Clary hỏi, nhìn cậu một lượt xem cậu đã ăn mặc cho buổi lễ chưa. Cậu không, nhưng cô cũng chẳng thể trách được - quần bò và áo phông là những thứ duy nhất cậu phải mặc. “Họ chọn ai?”
“Không phải là Raphael”, Simon nói, có vẻ hài lòng. “Một con ma cà rồng khác. Anh ta có tên hay lắm. Hình như là Nightshade[1] hay gì gì đó”.
[1] Tên một loài hoa họ cà chua,có màu tím, quả nhỏ.
“Cậu biết không, Clave đã hỏi mình có muốn vẽ biểu tượng cho Hội Đồng mới không”, Clary nói. “Đó là một vinh dự. Mình nói mình sẽ làm. Nó là chữ rune Hội Đồng được bao quanh bởi biểu tượng của bốn giống nòi Thế Giới Ngầm. Mặt trăng cho người sói, và mình đang nghĩ tới cỏ bốn lá cho thần tiên. Một cuốn sách phép cho pháp sư. Nhưng mình chẳng nghĩ ra biểu tượng cho ma cà rồng”.
“Còn răng nanh thì sao?” Simon gợi ý. “Có lẽ máu nhỏ giọt cũng hay”. Cậu nhe răng.
“Cám ơn”. Clary nói. “Cậu đã giúp mình nhiều quá nhỉ”.
“Mình mừng vì họ đã nhờ cậu”, Simon nói, nghiêm túc hơn. “Cậu xứng đáng được nhận vinh dự đó. Thực sự, cậu xứng đáng được nhận huy chương vì điều cậu làm. Chữ rune Đồng Hành và mọi thứ”.
Clary nhún vai. “Mình không biết nữa. Ý mình là, trận chiến chỉ diễn ra chưa đầy mười phút. Mình không biết mình có giúp được nhiều không”.
“Mình đã tham chiến, Clary ạ”, Simon nói. “Có lẽ nó chỉ kéo dài có mười phút, nhưng đó là mười phút kinh khủng nhất đời mình. Và mình không muốn nói tới nó. Nhưng mình sẽ nói rằng chỉ có mười phút thôi, nhưng nếu không nhờ có cậu, sẽ có nhiều chết hơn. Hơn nữa, trận chiến cũng chỉ là một phần. Nếu cậu không làm những việc kia, sẽ không bao giờ có Hội Đồng Mới. Chúng ta vẫn là Thợ Săn Bóng Tối và cư dân của Thế Giới Ngầm căm ghét nhau, thay vì Thợ Săn Bóng Tối và cư dân Thế Giới Ngầm dự tiệc cùng nhau.
Clary thấy nghèn nghẹn trong cổ và nhìn thẳng, mừng vì đã không khóc. “Cảm ơn nhé, Simon”, Cô lưỡng lự, rất ngắn và nếu không phải Simon thì sẽ không nhận ra. Nhưng cậu thì nhận thấy.
“Có gì thế?” cậu hỏi.
“Mình đang tự hỏi chúng ta sẽ làm gì khi về nhà”, cô nói. “Ý mình là, mình biết Magnus sẽ lo cho mẹ cậu để bác ấy không hoảng lên khi cậu ra đi, nhưng còn - trường học. Chúng ta sẽ nhớ nó lắm. Và mình còn chẳng biết-”
“Cậu sẽ không trở về”, Simon bình thản nói. “Cậu nghĩ mình không biết sao? Giờ cậu đã là Thợ Săn Bóng Tối. Cậu sẽ hoàn thành việc học tập tại Học Viện”.
“Còn cậu thì sao? Cậu là ma cà rồng. Cậu sẽ về trường học được không?”
“Ờ”, Simon nói, làm cô ngạc nhiên. “Mình sẽ đi học. Mình muốn một cuộc đời bình thường ở trong mức có thể. Mình muốn học hết trung học, cao đẳng và nếu được thì cả sau đó nữa”.
Cô bóp nhẹ tay bạn. “Và cậu nên có nó”. Cô ngẩng lên mỉm cười với cậu bạn thân. “Tất nhiên, mọi người sẽ hoảng lên khi cậu xuất hiện tại trường”.
“Hoảng? Vì sao?”
“Vì cậu đẹp trai hơn nhiều so với hồi cậu đi”. Cô nhún vai. “Thật đấy. Chắc là do chất ma cà rồng ấy mà”.
Simon có vẻ bối rối. “Mình đẹp trai lắm à?”
“Thật. Ý mình là, hãy nhìn hai cô gái kia đi. Cả hai đều say cậu như điếu đổ”. Cô chỉ về phía hai cô gái cách họ vài bước chân, Isabelle và Maia đang đi cạnh nhau, cúi đầu thì thào to nhỏ.
Simon ngước nhìn hai cô gái. Clary thề là cậu đã đỏ mặt. “Thật sao? Thi thoảng họ túm tụm lại, thì thào rồi nhìn mình. Mình chẳng hiểu có chuyện gì nữa”.
“Chắc là cậu không rồi”. Clary toét miệng cười. “Cậu đáng thương quá, cậu có hai cô gái đang muốn có được tình yêu của cậu. Cuộc sống của cậu sẽ mệt đây”.
“Được thôi. Cậu nói cho mình nên chọn ai vậy”.
“Không đời nào. Do cậu mà”. Cô lại hạ giọng. “Nghe này, cậu có thể hẹn hò với ai cậu muốn và mình hoàn toàn ủng hộ cậu. Mình luôn ủng hộ cậu hết mình. Ủng Hộ là tên đệm của mình mà”.
“Thể nào mà cậu không cho mình biết tên đệm. Mình đã nghĩ chắc nghe ngượng lắm”.
Clary lờ tịt đi. “Nhưng chỉ cần hứa với mình điều này, được chứ? Mình biết con gái thế nào. Mình biết họ ghét bạn trai có bạn thân là con gái. Hứa với mình rằng cậu sẽ không cho mình ra rìa nhé. Rằng thỉnh thoảng chúng ta vẫn đi chơi nhé”.
“Thi thoảng?” Simon lắc đầu. “Clary, cậu điên rồi”.
Trái tim cô chùng xuống. “Cậu muốn nói-”
“Mình muốn nói rằng mình sẽ không bao giờ hẹn hò với ai bắt mình phải bỏ rơi cậu. Không thể thỏa thuận được. Cậu muốn một miếng trong toàn bộ cái nhân vật thần thoại này hả?” Cậu chỉ vào mình. “Ờm, bạn thân mình sẽ đi cùng. Mình sẽ không cho cậu ra rìa đâu, Clary, cũng như mình không bao giờ bỏ cánh tay phải của mình để tặng cho ai đó như một món quà ngày Valentine”.
“Gớm chết”, Clary nói. “Cậu có nhất thiết phải thế không?”
Cậu cười tươi. “Phải thế”.
Quảng Trường Thiên Thần gần như không nhận ra nổi. Sảnh tỏa ánh sáng trắng ở xa xa, một phần bị che mất bởi những rừng đại thụ tự nhiên mọc ở trung tâm quảng trường. Chúng rõ ràng là tác phẩm của phép thuật - dù, Clary nghĩ, nhớ tới khả năng búng tay ra bàn ghế và những chiếc cốc cà phê tại Manhattan chỉ trong một cái nháy mắt, có lẽ chúng là thật, nếu được di tới từ nơi khác. Những cây mọc cao gần bằng tháp quỷ, thân cây màu bạc được buộc những dải ruy băng, những ngọn đèn màu được treo lên những cành cây lá xanh rì rào. Quảng trường có mùi hoa trắng, khói và lá. Rìa ngoài của quảng trường được đặt những chiếc bàn và ghế băng dài, và một nhóm Thợ Săn Bóng Tối cùng cư dân Thế Giới Ngầm đang tụ tập, cười đùa và trò chuyện. Nhưng dù họ cười, nhưng trong bầu không khí buổi lễ vẫn vương vất sự ảm đạm - nỗi buồn vẫn đồng hành cùng niềm vui.
Những cửa hàng quanh quảng trường đều mở toang cửa, ánh sáng tràn ra ngoài vỉa hè. Những người đi dự tiệc tràn ra, mang những đĩa đựng thức ăn và những chiếc ly dài đựng rượu và chất lỏng sáng màu. Simon quan sát một kelpie lướt qua, cầm theo một cốc đựng chất lỏng màu xanh lam và nhướn mày.
“Đây không giống bữa tiệc của Magnus”, Isabelle trấn an cậu, “Mọi thứ ngoài kia chắc đều uống được cả mà”.
“Chắc thôi à?” Aline có vẻ lo lắng.
Alec liếc nhìn cánh rừng nhỏ, những ngọn đèn màu phản chiếu trong tròng mắt xanh lam của anh. Magnus đứng dưới tán cây, nói chuyện với một cô gái mặc váy màu trắng có mái tóc mây màu nâu nhạt. Cô nàng quay lại khi Magnus nhìn về phía bọn họ, và Clary nhìn chăm chú một lúc lâu vào cô gái đó từ khoảng cách giữa họ. Có gì đó rất quen thuộc ở cô gái kia, dù Clary không hề biết là điều gì.
Magnus ngừng nói và tiến tới, và người con gái anh ta vừa nói chuyện cùng biến vào bóng râm của rặng cây rồi biến mất. Pháp sư ăn mặc như một quý ông thời Victoria, một chiếc áo khoác dài đen bên ngoài bộ véc lụa màu tía. Một chiếc khăn tay nhét trong túi vuông vức có hai chữ cái viết tắt M.B thò ra từ túi ngực.
“Áo vét đẹp đấy”, Alec cười nói.
“Em có muốn một chiếc áo khoác giống hệt thế này không?” Magnus hỏi. “Tất nhiên là tùy em chọn màu”.
“Em không quan tâm mấy về quần áo”, Alex phản đối.
“Và anh thích điều đó ở em”, Magnus tuyên bố, “dù anh thích nếu em có, có lẽ, một nhà thiết kế vét riêng. Em thích ai nào nào? Dolce? Zegna? Armani?”
Alec lắp bắp trong khi Isabelle cười lớn, và Magnus nhân cơ hội đó tới gần thì thào vào tai Clary. “Bậc tam cấp của Sảnh Hiệp Định. Đi đi”.
Cô muốn hỏi pháp sư muốn nói gì, nhưng anh ta đã quay lại với Alec và những người khác. Hơn nữa, cô có cảm giác là cô biết. Cô bóp chặt cổ tay Simon khi đi, và cậu quay lại cười trước khi tiếp tục trò chuyện với Maia. Cô đi qua khu rừng ảo ảnh tới bên kia quảng trường. Những cái cây mọc tới tận chân sảnh, có lẽ chính vì thế mà ở đó gần như chẳng có ai. Dù không hoàn toàn. Liếc về phía cánh cửa, Clary có thể thấy một bóng người quen thuộc đang ngồi dưới bóng một cây cột. Trái tim cô bắt đầu loạn nhịp.
Jace.
Cô phải kéo váy lên để bước lên những bậc thang, sợ sẽ dẫm váy và làm rách chất liệu vải mỏng manh này. Cô gần như ước đã mặc đồ thường ngày khi tới với Jace, người đang ngồi dựa lưng vào cột, nhìn ra ngoài quảng trường. Anh mặc bộ đồ giống người thường nhất - quần bò, áo sơ mi trắng, và áo khoác đen. Và gần như từ lần đầu tiên cô gặp anh, cô nghĩ, anh có vẻ không mang theo vũ khí.
Cô đột nhiên thấy mình ăn mặc quá lố. Cô dừng lại cách anh một quãng ngắn, đột nhiên không biết nói gì.
Như thể cảm nhận thấy sự hiện diện của cô, Jace ngước nhìn. Anh đang cầm cái gì đó đặt thăng bằng trong lòng, một chiếc hộp màu bạc. Anh có vẻ mệt mỏi. Mắt anh có quầng thâm, và mái tóc màu vàng sáng của anh rối bù. Mắt anh mở lớn. “Clary?”
“Còn ai được nữa?”
Anh không mỉm cười. “Trông em không giống em”.
“Đó là do cái váy đấy”. Cô ngượng ngùng vuốt theo chất vải. “Em không thường mặc những thứ - đáng yêu như thế này”.
“Em lúc nào cũng đẹp cả”. anh nói, và cô nhớ tới lần đầu tiên anh khen cô đẹp, trong nhà kính tại Học Viện. Anh không nói như một lời khen, mà như đó là một sự thật hiển nhiên, cũng như tóc cô đó và cô thích vẽ vậy. “Nhưng em có vẻ xa cách. Giống như anh không thể chạm tới em vậy”.